Câu hỏi và Giả thuyết nghiên cứu khác nhau như thế nào ?

Tuấn Long

Nghiên cứu

Đề cương nghiên cứu

17 Tháng M. một, 2019

Câu hỏi và Giả thuyết nghiên cứu khác nhau như thế nào ?

Một đề cương nghiên cứu thường bao gồm:

Đặt vấn đề > Ý nghĩa của đề tài > Tổng quan nghiên cứu > Đối tượng và Khách thể nghiên cứu > Phạm vi (không gian, thời gian, nội dung nghiên cứu) > Câu hỏi nghiên cứu > Giả thuyết nghiên cứu > Phương pháp nghiên cứu > Khung phân tích.

Ở bài viết này, mình sẽ chia sẻ cho các bạn một số nội dung liên quan tới câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu. Đây là thông tin tối quan trọng trong nghiên cứu khoa học, song lại thường xuyên bị xem nhẹ khi xây dựng đề cương nghiên cứu

6. Câu hỏi nghiên cứu là gì ?

Câu hỏi nghiên cứu (research question) là trạng thái nghi vấn về vấn đề nghiên cứu, nhất thời chưa có lời giải đáp. Có thể thấy, điều duy nhất cần làm với câu hỏi nghiên cứu chính là: trả lời nó

Bạn cần hiểu ràng, bản chất của nghiên cứu khoa học là việc bắt đầu từ sự tò mò quan sát sau đó đặt ra các câu hỏi và đi tìm câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi đó. Tuy rằng câu hỏi nghiên cứu đã được manh nha hình thành từ lúc bạn xác định vấn đề nghiên cứu hay quan sát nhưng đôi khi chỉ mới tồn tại ở dạng quan niệm hoặc khái niệm chưa rõ ràng.

Để hình thành nên câu hỏi nghiên cứu, bạn cần phát biểu một cách gãy gọn về việc nghiên cứu của bạn sẽ đi trả lời cho câu hỏi nào. Bạn nên tránh việc đưa ra một câu hỏi quá lớn, hoặc thiếu tự tin mà đưa ra câu hỏi quá manh mún. Thay vào đó, hãy tách câu hỏi lớn ra thành từ 2 - 3 câu hỏi nhỏ, đủ chi tiết cho các khía cạnh của vấn đề nghiên cứu. Theo kinh nghiệm, việc đi tìm câu trả lời cho từng câu hỏi sẽ là nội dung phân tích được trình bày gọn trong mỗi chương của báo cáo nghiên cứu; còn đề mục của chương chính là trạng thái không nghi vấn của chính câu hỏi đó.

Ví dụ:
Câu hỏi:
Hiện tượng xăm mình của giới trẻ Việt Nam hiện nay biểu hiện qua các chiều cạnh nào? Trả lời: hiện tượng xăm mình của giới trẻ Việt Nam có thể được biểu hiện của các chiều cạnh cụ thể như: số lượng hình xăm, vị trí xăm và thời điểm xăm. Triển khai trong báo cáo: Chương 2: Thực trạng xăm mình của giới trẻ Việt Nam hiện nay. 2.1. Số lượng hình xăm; 2.2. Vị trí xăm; 2.3. Thời điểm xăm

Câu hỏi nghiên cứu có vai trò quan trọng trong việc xác định đích đến của nghiên cứu. Thiếu câu hỏi nghiên cứu, bạn sẽ khó lòng xác định được nội dung cụ thể cần thực hiện và dễ dàng lạc lối sau một thời gian triển khai. Tương tự như vấn đề nghiên cứu, hãy dành cho mình một khoảng thời gian đủ để đưa ra các chiều cạnh cần khai thác trong mỗi vấn đề thay vì lao đầu vào làm khảo sát

Xin được trích dẫn câu nói của Bernard Marr, nhà khoa học dữ liệu lớn nổi tiếng trong thế kỷ XXI: "Đừng bắt đầu bằng dữ liệu, hãy bắt đầu bằng câu hỏi". Điều này có nghĩa rằng các nghiên cứu nên được định hướng bởi hệ thống các câu hỏi, kế đến đi tìm dữ liệu phù hợp để trả lời và cần chắc chắn rằng câu trả lời hoàn toàn tương thích và logic với câu hỏi, kể cả khi đáp án là một con số 0 tròn trĩnh.

7. Giả thuyết nghiên cứu

Nếu câu hỏi nghiên cứu là trạng thái nghi vấn về vấn đề nghiên cứu, thì giả thuyết nghiên cứu (research hypothesis) là câu trả lời tạm thời cho câu hỏi nghiên cứu. Điều duy nhất ta cần làm với giả thuyết nghiên cứu là đi tìm bằng chứng để chấp nhận (accept) hay bác bỏ nó (reject).

Giả thuyết nghiên cứu là một vấn đề trừu tượng dễ làm nản lòng những người đang tập tành làm nghiên cứu khoa học. Nếu nhìn nhận mọi chuyện theo một góc nhìn bình dân hơn, bạn có thể nhận ra việc chúng ta sử dụng giả thuyết hằng ngày nhưng không phải khi nào cũng để ý. Hãy tạm quên đi sự khô khan của khoa học và quay lại với các tiểu thuyết ngôn tình.

---

Thử liên tưởng tới việc một cô gái tự hỏi, ví dụ: “Anh ấy có yêu mình không nhỉ?”. Sau đó cầm bông hoa trên tay và ngắt từng cánh hoa, cùng câu nói: “Yêu” , “Không yêu”, “Yêu” , “Không yêu”...

Các bạn có thể thấy, việc cô gái đặt nghi vấn về tình cảm của chàng trai giành cho mình - chính là câu hỏi nghiên cứu. Câu trả lời cho câu hỏi này có thể diễn ra hai khả năng: Hoặc, bị từ chối tình cảm (Không yêu) hoặc là được đáp lại tình cảm ấy (Có yêu). Cả hai khả năng này đều chưa xảy ra trong thực tế, nên chỉ là câu trả lời tạm thời cho câu hỏi nghiên cứu. Nói một cách cơ học - đây chính là giả thuyết nghiên cứu.

Hãy làm rõ hơn về điều này. Một giả thuyết thường được phát biểu theo hai dạng, "giả thuyết không" (null hypothesis, ký hiệu là H0) và "giả thuyết đối" (alternative hypothesis, ký hiệu là H1). Giả thuyết không phát biểu về hiện trạng không tồn tại của hiện tượng, trong khi đối thuyết là giả thuyết ngược lại với giả thuyết không

Quay trở lại với câu chuyện của cô gái, các giả thuyết có thể được phát niểu như sau:

  • Giả thuyết H0 = cô gái bị từ chàng trai chối tính cảm (không yêu)
  • Giả thuyết H1 = cô gái nhận được tình cảm đáp lại từ chàng trai (có yêu)

Công việc của nhà nghiên cứu lúc này là đi tìm bằng chứng để có thể bác bỏ hoặc chấp nhận các khả năng có thể xảy ra nhằm trả lời câu hỏi ban đầu. Để kiểm chứng được các khả năng này (kiểm chứng giả thuyết), cô gái quyết định đi hỏi thẳng chàng trai hoặc gạ chuyện vu vơ xem thử tình cảm của anh chàng giành cho mình như thế nào - đây chính là hoạt động nghiên cứu.

Quá trình thu thập và phân tích dữ liệu cho ra kết quả sơ bộ:

Tình huống 1: Giả sử, chàng trai có các biểu hiện đại loại như tiến đên ôm hôn cô gái này nồng nhiệt, gật đầu đồng ý, cười hạnh phúc... ngụ ý “anh cũng yêu em” và cô gái này cũng hiểu được tín hiệu đó - bạn có thể chấp nhận giả thuyết H1, bác bỏ giả thuyết H0.

=> Trả lời câu hỏi nghiên cứu: “Chàng trai có tình cảm với cô gái”.

Tình huống 2: Giả sử, chàng trai này không hề có các biểu hiện trên, thậm chi còn có các biểu hiện như cao chạy xa bay, hay một đi không trở lại - ngụ ý “anh không yêu em” và cô gái này cũng hiểu được tín hiệu đó - bạn không có cơ sở để bác bỏ giả thuyết H0 (các bạn lưu ý cách dùng từ: là không bác bỏ giả thuyết H0 chứ không phải chấp nhận H0 và bác bỏ H1 nhé)

=> Trả lời câu hỏi nghiên cứu: “Không có cơ sở để chứng minh chàng trai có tình cảm với cô gái”.

Vấn đề nghiên cứu xem như đã được giải quyết !

---

Tất nhiên trên đây chỉ là câu chuyện vui giúp bạn hình dung được giả thuyết nghiên cứu. Trong thực tế nghiên cứu khoa học, các bạn sẽ cần phát biểu giả thuyết gãy gọn, rõ ràng, khúc chiết hơn. Bài viết này chỉ kỳ vọng các bạn có thể hình dung được giả thuyết nghiên cứu là gì.

Cũng lưu ý với các bạn rằng, giả thuyết nghiên cứu (research hypothesis) có một chút khác biệt với giả thuyết thống kê (statistical hypothesis).

Giả thuyết nghiên cứu rộng hơn giả thuyết thống kê và là câu trả lời tạm thời cho cả nghiên cứu tịnh tính lẫn định lượng. Trong khi giả thuyết thống kê dựa mức ý nghĩa thống kê (statistical significance) để chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết nên thường được sử dụng như công cụ chủ lực trong nghiên cứu định lượng.

Quan điểm cho rằng nghiên cứu định tính chỉ có câu hỏi nghiên cứu; nghiên cứu định lượng chỉ có giả thuyết nghiên cứu; còn nghiên cứu hỗn hợp thì có cả hai là chưa thỏa đáng. Vì bản chất của nghiên cứu là trả lời câu hỏi thông qua việc đặt câu hỏi và kiểm định câu trả lời. Vậy nên câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu là thành phần không thể thiếu trong mọi nghiên cứu.

Kết luận

Hãy chắc chắc rằng bạn sẽ trả lời câu hỏi và kiểm định giả thuyết trước khi khép lại nghiên cứu của mình. Câu trả lời cho hai phần này không chỉ dược trình bày trong phần nội dung chính mà còn được nhắc lại một cách rõ ràng ở phần kết luận. Đừng quên rằng bản chất sâu sa của nghiên cứu không phải là việc đi tìm câu trả lời đúng / sai mà tìm bằng chứng để chấp nhận / hay bác bỏ một giả thuyết khoa học.

Hẹn gặp lại các bạn ở bài viết tới !

---

Tài liệu tham khảo chính:

  1. Gordon Mace & Francois Petry (2013), “Cẩm nang xây dựng dự án nghiên cứu trong khoa học xã hội”, NXB Tri thức
  2. Michel Beaud (2014), “Nghệ thuật viết luận văn”, NXB Tri thức
  3. Nguyễn Xuân Nghĩa (2010), “Phương pháp & kĩ thuật trong nghiên cứu xã hội”, NXB Phương Đông
  4. Nguyễn Văn Tuấn (2018), “Phân tích dữ liệu với R”, NXB Tổng hợp TP. HCM
  5. Nguyễn Văn Tuấn (2018), “Đi vào nghiên cứu khoa học”, NXB Tổng hợp TP. HCM
  6. Phan Văn Quyết & Nguyễn Quý Thanh (2001), “Phương pháp nghiên cứu Xã hội học”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội